XÃ QUỲNH YÊN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN
*********
Xã
Quỳnh Yên thuộc bãi dọc cuối vùng nông giang, cách trung tâm huyện
Quỳnh Lưu 7 km về phía Đông. Với tổng diện tích tự nhiên 734,39 ha;
diện tích canh tác 487,71 ha.
Phía
Tây giáp xã Quỳnh Bá; Phía Nam giáp xã Quỳnh Ngọc; Phía Đông – Nam
giáp xã An Hòa; phía Đông giáp sông Mai xã Quỳnh Nghĩa, Quỳnh Minh; phía
Bắc giáp xã Quỳnh Thanh; phía Tây- Bắc giáp xã Quỳnh Đôi. Xã Quỳnh Yên ngày nay được hình thành trên cơ sở 3 làng khi xưa: Làng Thượng, Làng Cầm Trường, Làng Trung Yên. Làng
Thượng Yên, từ thế kỷ 14 đã có người bắt đầu đến khai canh trên vùng
đất này là người trại Kim Lũ (gồm họ Hồ Nam Sơn và người Thổ Ngõa- họ Hồ
Thi ngày nay, tiếp tục có một số họ đến sau như họ Lê Đại Tôn, họ Hồ
Công...) có lúc gọi là giáp Thượng Yên. Vào đầu thế kỷ 15, có ông Hồ Hân
người gốc xã Quỳnh Đôi ngày nay, ông học giỏi, thông thiên văn tường
địa lý, là một võ tướng từng theo Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn đánh thắng
giặc Minh. Khoảng giữa thế kỷ 15, ông xin về nghỉ hưu lúc đã 70 tuổi,
ông Lê Bá Tuấn ông tổ họ Lê Đại Tôn mời xuống giáp Thượng Yên (đất trại
Kim Lũ) cùng khai phá đất đai cày cấy, làm muối, bắt cua ốc... làm ăn
sinh sống, vì có chữ nghĩa lại làm quan một thời nên ông đã đứng ra lập
tấu trình cấp trên xin lập Làng Thượng Yên. Ông được coi là thần khai cơ
của làng Thượng Yên. Làng Cẩm
Trường, vào khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 người từ các nơi
nhưThanh Sơn, Quý Hòa, Bút Luyện, Yên Định, Làng Vọng.... đến ở đất Cẩm
Trường, thuộc tổng Thanh Viên khai khẩn đất đai làm lúa, đơm đó, bắt
cua. Từ khi lập làng đến nay người dân Cẩm Trường 100% theo đạo Công
giáo. Làng Trung Yên, khoảng cuối thế
kỷ 18, một số họ Nguyễn, họ Trần, họ Hồ...đến sống ở vùng đồi Ô Lầu
Thượng Yên đã theo đạo Công giáo làm ăn và đọc kinh cầu nguyện. Về sau
bà con ở đây thấy cư trú sinh hoạt không thuận tiện nên dời xuống phía
nam làng Thượng Yên lập nên làng Hạ Lăng về sau gọi là Trung Yên
(khoảng đầu thế kỷ 19). Năm 1947
Thượng Yên hợp lại với Quỳnh Đôi gọi là xã Quỳnh Yên. Năm 1947 Cẩm
Trường, Trung Yên được lập riêng một xã gọi là xã Yên Trường. Năm 1949
Thượng Yên, Cẩm Trường, Trung Yên, Thanh Dã, Quỳnh Đôi nhập lại gọi là
xã Quỳnh Anh. Đến tháng 6 năm 1954 huyện chia Quỳnh Anh làm 3 xã: Quỳnh
Đôi, Quỳnh Thanh và 3 thôn Thượng Yên, Trung Yên, Cẩm Trường thành xã
Quỳnh Yên từ đó đến nay.
Dân số xã có 8740 người (57% nhân dân theo đạo Công giáo) với 1.619 hộ,
trải trên 3 vùng dân cư, được phân chia làm 12 thôn (trong đó có 5 thôn
nhân dân đạo Công giáo: 5, 6, 7, 8, 9). Nghề nghiệp chính là thâm canh
lúa nước và chăn nuôi. Ngoài ra còn nghề tiểu thủ công nghiệp như làm
muối, sản xuất gạch ngói, mây tre đan xuất khẩu, sản xuất vật liệu xây
dựng, buôn bán nhỏ. Tăng trưởng kinh tế hàng năm: 13%, thu nhập bình
quân đầu người: 12.000.000/năm. Đảng bộ xã có 203 đảng viên, 15 chi bộ
của 12 thôn và 3 đơn vị trường học.
Với lợi thế, địa hình tương đối bằng phẳng, giao thông thuận lợi, phía
Đông giáp sông Mai Giang thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản cá tôm
nước lợ và cá lúa. Xã có làng nghề
Mây tre đan xuất khẩu được thành lập năm 2010, giải quyết được lao động
thời gian nông nhàn của nhân dân với thu nhập ổn định bình quân
2.100.000/người/tháng. Chùa và di tích văn hóa của xã Xã có Chùa Lam Sơn nằm giữa trung tâm xã thuộc làng Thượng Yên với tổng diện tích khuôn viên 5.498m2.Chùa
Lam Sơn xây dựng vào triều đại Lê Trung Hưng, do nhiều biến động đến
năm 1786 chùa được xây dựng lại trên địa bàn trung tâm của làng. Chùa thờ Phật Thích Ca- Mâu- Ni, theo thiền phái Phật Trúc Lâm của Trần Nhân Tông. Chùa
kiến trúc theo kiểu đời Trần có 4 mái, hai toà liền nhau. Toà trên là
Pháp Bảo nơi thờ chính. Toà trước là bái đường 3 gian, 4 vì gỗ lim.
Chùa có tượng Tam- Thế, A-Di- Đà, Quan Âm Thế Chế, Thích- Ca Mâu- Ni.
Tượng Văn, Phù , Phổ, Hiền, tượng Phật Hộ Pháp bằng đá xanh. Xà bên
trái treo quả chuông đồng đề 4 chữ “Lam Sơn Tự chung”. Xưa kia hoạt động của Chùa chủ yếu vào ngày rằm, mồng một hàng tháng(âm lịch) trong năm có 3 ngày lễ lớn. Rằm tháng Giêng, lễ Phật Đản( 8/4 ÂL).
Lễ Trung Nguyên (15/7 ÂL). Những ngày đầu Cách Mạng tháng 8/ 1945 chùa
là nơi phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền của xã, sau đó là nơi
tập luyện của tự vệ thôn, nơi che dấu cán bộ hoạt động kháng chiến
chống Pháp. Sau được sửa sang làm trường học, tiếp đến làm kho thóc
HTX. Năm 1958 - 1959 chùa bị phá dỡ để phục vụ kháng chiến chống Mỹ và
làm trường học cấp 1. Ngày nay
trong công cuộc đổi mới của đất nước, đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân được nâng lên, nhu cầu về sinh hoạt tinh thần, tự do tín
ngưỡng cũng được Đảng, Nhà nước quan tâm hơn. Để đáp ứng nhu cầu sinh
hoạt tâm linh tín ngưỡng của nhân dân trong xã và Phật tử gần xa,
UBND tỉnh Nghệ An cho phép và xã Quỳnh Yên đang tiến hành khôi phục lại
chùa Lam Sơn khang trang linh thiêng hơn xưa. Dự toán ban đầu 25 tỷ
đồng, dự kiến hoàn thành trong 3 năm. Di tích Đền Nam nằm phía Nam của xã, trên địa bàn cuối thôn 12 với tổng diện tích khuôn viên 1857m2 .
Đền Nam- Mộ cổ được xây dựng để thờ “Dương Tướng Công” là vị võ
tướng “Chánh lĩnh binh hành tải” thời Lê triều Cảnh Hưng tứ thập
thất niên (1786). Đền Nam có từ lâu đời, đây được coi là nơi
sinh hoạt văn hóa, tâm linh thăm viếng hương khói hàng năm của nhân
dân trong, ngoài xã từ xưa đến nay. Qua quá trình biến động của lịch
sử, phục vụ kháng chiến, một số nhà đền đã bị tháo dỡ trưng dụng làm hầm
trú ẩn, còn lại làm nơi chế tạo vũ khí, kho lương thực, làm trường
học sơ tán. Cây đa cổ thụ hàng trăm tuổi làm đài quan sát chống càn giặc
Pháp năm 1949, rồi tác động của thiên nhiên mà đền đã bị mai một. Ngày
nay được sự quan tâm hơn của Đảng, Nhà nước, ý thức của nhân dân, Đền
Nam dần được khôi phục. Đến nay còn 1 ngôi mộ cổ còn nguyên vẹn, nhà
thượng điện 2 gian, nhà hạ điện 5 gian gỗ lim 4 mái, tượng “Dương
Tướng Công”, bức đại tự “tinh thần tại”, đồ tế khí, cây đa cổ thụ. “Bia
đỏ ngàn năm di chỉ, mồ xanh muôn thuở Dương Công. Tổ tiên xưa cất
thiết Đền Nam, con cháu tại tôn tu mộ Thánh”. Có BQL đền để điều hành
hoạt động quanh năm. Do có công với
nước với làng, trước đây Ngài đã được các triều đại Phong Kiến
phong sắc nhiều lần “Dực bảo trung hưng, linh phù bản cảnh, thành
hoàng anh linh hùng nghị, Dương tướng công, gia tặng đoan túc tôn
thần”, là vị Thần Hoàng của làng được nhân dân tôn kính ngưỡng vọng.
Hàng năm tới ngày kê hạ (7/1 âm lịch) làng tổ chức lễ lớn
rước Ngài lên Đình Trung, tế lễ xong rồi rước về đền đại tế. Kế thừa
phong tục tốt đẹp của tiền nhân, ngày nay hàng năm vào đúng giao thừa
tết cổ truyền, xã tổ chức tế lễ dâng hương Đức Thánh cầu cho quốc thái
dân an. Nhân dân đến chiêm bái, xin lộc, cầu may như trẩy hội. Hương
khói quanh năm, nhất là ngày mồng một, ngày Rằm hàng tháng. Mọi thông tin liên hệ qua số máy 0383657737 (Văn phòng UBND xã ) ---------------------
|